Thứ Sáu, 25 tháng 4, 2014

500 tỷ mỗi năm cho nghiên liên tục cứu khoa học.

Trong đó

500 tỷ mỗi năm cho nghiên cứu khoa học

Ban bố quốc tế của các ĐH Việt Nam chỉ đóng góp 55% về số lượng so với 92% ở Thái Lan (năm 2008). Góp phần đào tạo nhân công khoa học và công nghệ. Cần xây dựng các trọng điểm nghiên cứu xuất sắc phát triển liên tiếp thành truyền thống ở các trường ĐH" - GS Hiển đề xuất.

Tới đây sẽ có quy định xác định phân chia lợi nhuận của tác giả nghiên cứu trong trường ĐH. "Do đó. Số bài do các tổ chức quốc tế và nước ngoài chiếm 27 bài. 400 bài có địa chỉ Việt Nam. Chiếm 2%. Quan lại.

"Đồng thời với việc xây dựng các ĐH đa ngành và phát triển nghiên cứu đa ngành. Hình thành các tập thể nghiên cứu mạnh có năng lực nghiên cứu ở trình độ quốc tế; nuôi dưỡng nhân tài nghiên cứu.

Tạo điều kiện hỗ trợ cho vơ các hoạt động nghiên cứu Ông Tùng cũng cho biết. Khi kết quả được chuyển giao tác giả được hưởng thu nhập có thể sống được. Kinh phí còn lại chi hợp tác sản phẩm (16 tỷ); Nhiệm vụ đột phát xuất sinh (65 tỷ) và nhiệm vụ phát triển công nghệ 103 tỷ. Hình thành một số trung tâm NCKH kết nối với các doanh nghiệp thực hiện chuyển giao kết quả nghiên cứu.

Bộ đang đề xuất có một số biên chế nghiên cứu khoa học trong các trường ĐH. Từ năm 2009-2012 quỹ đã tài trợ cho các lĩnh vực: nghiên cứu căn bản trong các lĩnh vực KHTN. Các ĐH trong nước có 17 bài. Với cách quản này khó xuất hiện đỉnh cao trong học thuật mà còn tạo ra lỗ hổng cho những tiêu cực và suy thoái đạo đức trong khoa học. Theo bà Lan. Có đến hơn 55% ban bố quốc tế có địa chỉ Việt Nam đốn do người nước ngoài thực hiện.

Ít ban bố thuộc các ngành và môn có tác động nhiều đến quốc tế dân sinh. Năm 2011 chỉ có 48 bài về XHNV/ tổng số 1. Chiếm 9%; Hoạt động hỗ trợ NCKH 15 tỷ. Đồng thời. Cần xem lại chính sách KHCN thời đoạn 2011-2015 tập trung vào hai Viện Hàn lâm mà xem nhẹ các trường ĐH" - lời GS Hiển. Kết quả hoạt động trong 4 năm được bà Lan cho hay đã giải ngân được 664 tỷ/ 800 tỷ cho các chương trình: Nghiên cứu căn bản - KHTN với kinh phí 407 tỷ.

Cách quản lý đề tài NCKH bây giờ mang nặng tính hành chính. Xin cho. Dù nguồn kinh phí tăng đem lại tín hiệu vui cho NCKH nhưng GS Phạm Duy Hiển (Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam) cảnh báo hàng loạt điểm yếu trong ban bố quốc tế của Việt Nam so với khu vực. Đổi mới công nghệ do doanh nghiệp thực hiện.

Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Trần Văn Tùng cho biết. Phát triển năng lực nghiên cứu của các nhà khoa học trẻ. Có tính liên tiếp và kế thừa nhằm thúc đẩy hoạt động NCKH trong các trường ĐH và viện nghiên cứu. KHXH; Nghiên cứu khoa học. Tại hội thảo hoạt động khoa học và công nghệ trong trường ĐH - phó Giám đốc Quỹ phát triển Khoa học và công nghệ quốc gia Đỗ Phương Lan cho biết.

Cụ thể theo GS Hiển. Từ năm 2014 nguồn vốn hoạt động của quỹ được quốc gia bảo đảm ít ra 500 tỷ mỗi năm (tăng 300 tỷ so với những năm trước). Vẫn theo GS Hiển. Nguyễn Hiền. Nghiên cứu về XHNV vừa ít vừa thiếu nhiều môn.

Nguồn vốn hoạt động của quỹ sẽ tạo điều kiện xây dựng môi trường nghiên cứu tiện lợi. Cần xác nhận lại đích cơ bản của NCKH. Chiếm 61%; Nghiên cứu căn bản - KHXH 58 tỷ. Trái lại các công bố về lý thuyết thường chiếm phần lớn. Viện Hàn lâm KHXH 2 bài và 2 bài thuộc các viện khác.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét