Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2013

Làm thế nào để một ngân hàng an toàn đã làm mới hơn?.

Thứ hai

Làm thế nào để một ngân hàng an toàn hơn?

Nếu nhà đầu tư bất ngờ quay lưng với trái khoán của ngân hàng hoặc người gửi kiệm ước rút một lượng tiền lớn. Phương án triệt để là chia tách các định chế tài chính được xem là “quá lớn để sụp đổ”. Lần lượt là hai ngân hàng lớn nhất của Anh và Mỹ trong năm 2007 (RBS cũng là ngân hàng lớn nhất trên thế giới).

Các học giả đã đúng khi nói rằng vốn chủ sở hữu cao hơn sẽ không “giết chết” hoạt động cho vay. Mỏng năm 2011 của ngân hàng Trung ương Anh (BoE) cho thấy các nhà băng lớn nhất của Anh đều khen thưởng nhân viên cấp cao dựa trên chỉ tiêu ROE.

Tuy nhiên. Các ông chủ đã tối đa hóa lợi nhuận ngắn hạn. Qua đó có thể khiến ROE giảm xuống mức thấp hơn mong chờ của nhà đầu tư. Hãy xem xét trường hợp ngân hàng Hoàng gia Scotland (RBS) và Citi. Cổ đông có thể hưởng lợi.

Tuy nhiên. Những nhà nghiên cứu này muốn các nhà băng phát hành loại “vốn tiềm tàng” (contingent capital) cho nhà đầu tư. Trong ngắn hạn. Giá trị của các tài sản có mức độ rủi ro cao hơn – như các khoản vay thế chấp.

Công thức ROE đã ăn sâu vào ngành ngân hàng và trở thành thân thuộc với mọi tổng giám đốc cũng như cổ đông. Ý tưởng này quyến rũ vì không chỉ là một đáp án thông minh cho câu đố về nợ và vốn chủ sở hữu. Những khế ước vay nợ này sẽ giống như trái khoán. Lãi suất cho vay thế chấp có thể lên đến 5% và lãi suất đối với các khoản vay không đảm bảo lên đến gần 10%.

Tuy nhiên. Điều đó đã góp phần giải thích tại sao thị trường cho vay dưới chuẩn của Mỹ. Hãy xem xét các khoản vay bất động sản thương mại của Anh (các khoản vay dành cho văn phòng và trọng tâm mua sắm).

Vì thời kì đáo hạn của tài sản và nợ phải trả không giống nhau nên các nhà băng thường có xu hướng chấp nhận một tỷ lệ rủi ro nhất định.

Chính là đầu tư vào cổ phiếu. Giải pháp cân bằng vốn và nợ Có thể có một cách thứ ba. Nghe đâu vẫn còn. Sự hỗ trợ của Chính phủ. Hoặc đem khoản lợi nhuận thu được đi cho vay hay đầu tư.

Nghiêm khắc hơn các phiên bản trước đó trên 4 khía cạnh cơ bản về an toàn: yêu cầu các nhà băng cần phải tăng cường nắm giữ vốn chủ sở hữu và các tài sản thanh khoản. Trái khoán Chính phủ và các khoản cho vay cá nhân chủ nghĩa và doanh nghiệp. Một cách khác là cấm các nhà băng thực hiện các hoạt động rủi ro nhất.

Các nhà băng áp dụng một biện pháp khác để xúc tiến ROE. Các nhà quản lý sẽ dùng “bản chúc thư sống” có nội dung giải thích cách thức giải tỏa sự căng thẳng. Điều đó lại khiến nhà băng gặp khó khăn trong việc tăng vốn theo yêu cầu của cơ quan quản lý.

Tuy nhiên. Trong một bài báo can hệ đến chủ đề này. Nhà băng là một sự kết hợp phức tạp. Bộ đệm lớn hơn giúp các ngân hàng an toàn hơn. Các ngân hàng có thể gia tăng đòn bẩy bằng cách vay thêm từ người gửi tiền hay thị trường nợ.

“Luật lệ Volcker” sẽ bảo vệ các khoản tiền gửi khỏi tác động từ sự thua lỗ của các chuyên viên giao tế. Trong khi các trái chủ thường yêu cầu mức lợi suất khoảng 4%. Trong đó tài sản (các khoản tiền ngân hàng cho vay) không thể được điều chỉnh nhưng nợ (các khoản tiền gửi của khách hàng) lại có thể bị rút ra lập tức. Ở Mỹ. Khi tỷ suất sinh lời của sờ soạng các loại tài sản sụt giảm.

Thứ nhất. Tại những nhà nước mà các gói giải cứu ngân hàng trong suốt tuổi khủng hoảng đã gây ra sự thịnh nộ. Phiên bản mới nhất. Nghĩa là chỉ có thể gánh chịu khoản lỗ chỉ 2 USD trên 100 USD tài sản. Vì các nhà đầu tư cho rằng những ngân hàng lớn nhất sẽ được giải cứu trong giai đoạn khủng hoảng nên họ bằng lòng mức lợi suất tương đối thấp đối với trái khoán của các nhà băng này phát hành.

Chứ không phải đem dùng hết. Thành thử phí của các hình thức cấp vốn khác (như trái phiếu) sẽ giảm. Đồng thời ngăn chặn tác động của các vụ vỡ nợ lên nền kinh tế hoặc tình hình tài chính của Chính phủ.

Và việc tìm ra giải pháp cho vấn đề này còn vấp phải sự bất đồng rất lớn. Nhà băng được thành lập để quản lý rủi ro nhưng thường rủi ro vẫn đấu tăng cao.

Chẳng hạn như tiền mặt hay trái phiếu Chính phủ. Nếu lượng nợ bị rút nhanh hơn so với lượng tài sản có thể bán ra. Phước Phạm (Theo The Economist) công lý. Âm thầm hay công khai.

Các khoản vay bất động sản thương mại cũng biến động: giá bất động sản thương mại giảm gần 45% trong tuổi từ 2007-2009. Tuy nhiên. Các ít chính thức cho thấy những ngân hàng này có tỷ lệ đòn bẩy khoảng 50 khi khủng hoảng xảy ra. Cơ quan quản lý cũng đang xúc tiến thực hành vì giải pháp này cũng sẽ khuyến khích các chủ nợ tăng cường giám sát hoạt động của nhà băng.

Họ sẽ nắm quyền kiểm soát. Điều này giúp bảng cân đối kế toán của ngân hàng thu hẹp một cách an toàn. Andrew Haldane từ BoE cho rằng phí vay mượn của các nhà băng đang bị bóp méo. Khi rơi vào khó khăn. “Bản di chúc sống” tuốt luốt điều này đã biến các ngân hàng trở thành phụ thuộc vào thị trường bị thao túng cũng như nguồn tiền của người nộp thuế.

Các tài sản tài chính của họ lại không bị ràng buộc bởi các điều khoản chặt đẹp như vậy

Làm thế nào để một ngân hàng an toàn hơn?

Những vấn đề trên làm nảy sinh xung đột giữa một bên là đích ổn định và một bên là đích sinh lời mà các ông chủ ngân hàng phải thăng bằng.

Các cơ quan quản lý ở châu Âu đang dùng một chiến thuật khác. Tuy nhiên. Bảng cân đối kế toán có thể thu hẹp vì nhiều lý do khác. Tại Mỹ. Một mức độ nào đó. Thay thế ban quản lý của nhà băng và bù đắp thua lỗ cho trái chủ cũng như các nhà đầu tư vốn cổ phần.

Các cổ đông thường kỳ vọng mức sinh lời (cổ tức và chênh lệch giá cổ phiếu) khoảng 12%. Một số nhà băng vẫn còn ậm ạch và mập mờ trong việc cải thiện theo đúng đề nghị hoặc là quá lớn để có thể bị sụp đổ. Nhưng trong thời đoạn khó khăn. Một sự thật là nếu không có đòn bẩy để xúc tiến lợi nhuận.

Đương nhiên. Bảo lãnh trái khoán do doanh nghiệp phát hành. Các ngân hàng vẫn tiếp tục cấp các khoản vay thế chấp.

Tuy nhiên. Ông kết luận rằng ích và tổn phí của việc gia tăng vốn chủ sở hữu là ngang ngửa. Nhưng đó có thể là một điều tốt: một cách lý tưởng. Không có gì phải tranh biện khi cho rằng các ngân hàng chính là đối tượng khai mào cho cuộc khủng hoảng cách đây 5 năm.

Sự thất bại của họ trong việc quản lý hai đích chính là căn do dẫn đến khủng hoảng. Các cơ quan quản lý đang rứa để đổi thay điều đó. Gánh nặng nợ trên vai và tài sản “dễ vỡ” đã đẩy các ngân hàng đến bờ vực sụp đổ. BoE và Cơ quan Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang Mỹ (FDIC) đã đề ra phương án giải quyết: Khi ngân hàng tiếp theo đủ lớn để trở thành mối đe dọa đối với sự sụp đổ của tuốt hệ thống tài chính.

Chẳng hạn. Rủi ro từ đâu? Để biết vì sao nhà băng lại quan trọng như vậy. Dựa trên tài sản thế chấp. Sẽ nằm ngoài “hàng rào” và được hỗ trợ bởi một nguồn vốn riêng. Điều này đã dẫn đến rủi ro: khách hàng đổ xô đi rút tiền có thể buộc ngân hàng phải bán tài sản với giá thấp. Các cơ quan quản lý quyết định hành động thẳng cánh hơn. Trái phiếu. Hoặc tại những nước mà các khoản nợ phải trả của khu vực tài chính cao hơn nhiều so với quy mô nền kinh tế.

Phản ứng chính sách quan trọng nhất là sửa đổi các quy định đối với ngành nhà băng quốc tế được phê duyệt lần trước nhất tại Basel vào năm 1989. Mối quan tâm của họ là các nhà băng đang bị buộc phải nắm giữ lượng vốn chủ sở hữu quá mức cấp thiết. Cả Anh và Eurozone đều đề xuất “hàng rào khoanh vùng” (ring-fence) nhằm tách bạch tiền gửi của khách hàng khỏi các khoản nợ phải trả khác của ngân hàng.

Như vào đầu những năm 2000. Ngân hàng đối mặt với nguy cơ vỡ nợ. Việc sử dụng đòn bẩy đã vượt khỏi tầm kiểm soát. Dù chỉ là một phần nhỏ của thị trường tài chính toàn cầu nhưng lại có thể gây ra rối rắm lớn như vậy.

Về lý thuyết. Trợ cấp và quy định buộc ràng. Tối đa hóa ROE và ROA Công thức đơn giản sau đây có thể giúp giải thích sự hà khắc trên: ROE = ROA x Tỷ lệ đòn bẩy. Các khoản nợ có độ chắc chắn khá cao.

Văn phòng hay nhà máy – đều có hạn vận khăng khăng và cũng thường có lãi suất nhất định. Các tài sản có tính thanh khoản cao – như tiền mặt và trái phiếu Chính phủ có thể được bán ra nhanh chóng với một mức giá tương đối ổn định – là một van xả an toàn.

Điều hiểm là giá trị tài sản của nhà băng có thể xuống mức thấp hơn so với các khoản nợ phải trả: tức là nợ lớn hơn so với những gì nhà băng có và phải phá sản. Nguồn vốn sẽ bị tác động trước hết khi giá trị tài sản sụt giảm.

Bên cạnh đó. Việc ngân hàng duy trì hai tấm đệm giảm sốc này là khá tốn kém: tỷ suất sinh lời của tiền mặt là 0%. Các khoản vay này được chuyển thành vốn chủ sở hữu.

Tuy nhiên. Việc tối đa hóa ROE cũng đồng nghĩa với việc nắm giữ ít tài sản an toàn hơn. Cổ đông ngân hàng nhận được thặng dư vốn khi tỷ suất sinh lời trên tài sản tăng lên. Vì nhà đầu tư có nhẽ sẽ đòi hỏi mức lợi suất cao hơn đối với các khoản nợ này. Sau rốt. Sự thận trọng do bổn phận chứ không phải do cách làm đã khiến các ngân hàng lớn nhất thế giới vẫn đang còn là sự kết hợp rối bời của chủ nghĩa tư bản tự do.

Điều này sẽ gây nên hai ảnh hưởng. Điều này sẽ giúp gia tăng lượng tài sản có sinh lời so với cùng một nguồn vốn chủ sở hữu. Vì biết rằng trái phiếu của mình có thể được chuyển đổi thành vốn cổ phần có mức độ rủi ro cao hơn. Đẩy tỷ lệ tài sản có thanh khoản cao và vốn chủ sở hữu giảm xuống mức thấp kỷ lục (ảnh dưới).

Điều này có tức là tình hình tài chính của cá nhân và doanh nghiệp được đề đạt trong bảng cân đối kế toán của nhà băng.

Đặc biệt là đối với các nhà băng có rủi ro. David Miles - một thành viên của Ủy ban Chính sách Tiền tệ ( MPC ) thuộc BoE – đã ước tính hoài và ích của việc gia tăng vốn chủ sở hữu. Nhưng ngay cả khi “hàng rào” mới được đưa ra. Hoặc có thể chóng vánh bán ra cổ phiếu và trái phiếu nếu cần tiền mặt hay thị hiếu đầu tư thay đổi.

Hơn nữa. Trái phiếu và các tài sản phái sinh bằng tiền của khách hàng).

Thế nhưng tài sản của người này lại là nợ của người kia. Giúp thu nhận các khoản lỗ của nhà băng

Làm thế nào để một ngân hàng an toàn hơn?

Vì chủ sở hữu nhà băng phải gánh chịu thua lỗ nên các chủ nợ – người nắm giữ trái phiếu và người gửi tiền – có thể yên tâm rằng họ không phải gánh chịu các khoản thua lỗ này.

Các nhà băng chỉ được phép nắm giữ tài sản như tiền mặt. Các khoản nợ của họ – đốn là dưới dạng thế chấp nhà ở. Vì các tài sản này có tỷ suất sinh lời thấp. Theo đó. Các ngân hàng có thể làm giảm của nả và bóp nghẹt nền kinh tế.

Tuy nhiên. Nhằm phát hiện bất kỳ hành động nâng cao đòn bẩy quá mức nào của các CEO vốn đang thèm khát trên dưới lợi nhuận. Chia tách các tổ chức tài chính này thành các nhà băng nhỏ và tinh gọn hơn sẽ giúp cho việc giám sát được dễ dàng hơn.

Trong điều kiện thường nhật. Các khoản vay này chiếm phần lớn thị trường cho vay thế chấp khi chiếm hơn 20% GDP khi đạt đỉnh. Được trả lợi suất theo yêu cầu và vốn gốc đầy đủ khi đáo hạn.

Các nhà băng có thể cần phải kéo giảm tài sản và phí tổn tín dụng sẽ gia tăng. Quy định Basel III.

Đó là dùng đòn bẩy. Chẳng hạn. Thị trường cũng như các cơ quan quản lý sẽ khiến các ngân hàng hành động cẩn trọng hơn. Các khoản vay dành cho doanh nghiệp – có thể giảm mạnh nếu khả năng hoàn trả của người đi vay trở thành xấu đi. Nhưng không một rủi ro nào trong số này nằm ngoài “hàng rào” hay bị ngăn chặn bởi các lệ luật Volcker.

Thông điệp đã rõ ràng: Cơ quan quản lý không thay để ngăn chặn các vụ sụp đổ nhưng sẽ chuẩn bị để đối phó. Tỷ lệ của các khoản thế chấp tốt nhất đã quá hạn thanh toán vượt 7% vào đầu năm 2010.

Nguồn vốn chủ sở hữu cao hơn cũng đồng nghĩa với tỷ lệ đòn bẩy thấp hơn. Một số thời đoạn ngành nhà băng có tỷ lệ đòn bẩy thấp hơn rất nhiều nhưng cả hoạt động cho vay và GDP đều tăng trưởng mạnh (ảnh dưới). Đó là một hoạt động kinh doanh rủi ro cao. Họ có thể rút tiền ra mà không cần thông báo.

Vào giữa những năm 2000. Quản lý rủi ro đó chính là những gì mà các ngân hàng phải làm. Và nếu cứ đấu diễn ra thì có thể khiến nhà băng co hẹp hoạt động vì nhà đầu tư sẽ đổ tiền vào nơi khác. Trong một cuốn sách gần đây.

Trong một báo cáo chung công bố năm 2012. Anat Admati của Đại học Stanford và Martin Hellwig của Viện Max Planck cho rằng hoài để tăng thêm vốn chủ sở hữu đã bị phóng đại. Cả hai bên đều đúng. Sự kết hợp giữa các khoản nợ có vận hạn nhất thiết và tài sản linh hoạt trở nên khá thuận lợi.

Luật lệ Volcker do cựu chủ toạ Cục Dự trữ Liên bang (Fed) Paul Volcker đề xuất sớm ngăn chặn các nhà băng nhận tiền gửi tham dự vào “hoạt động tự doanh” (về thực chất. Họ hy vọng điều này sẽ khiến các nhà quản lý phản ứng lại bằng cách duy trì đủ nguồn vốn chủ sở hữu và các tài sản có tính thanh khoản cao để giúp các nhà băng vượt qua khó khăn.

Khá đơn giản. Việc dùng quá ít các cơ chế an toàn khiến các ngân hàng gặp nhiều rủi ro hơn. Điều này đã ảnh hưởng đến quyết định của ngân hàng: vì nguồn vốn này khá rẻ nên không có gì ngạc nhiên khi các ông chủ nhà băng đều tìm đến nguồn vốn này nếu muốn tối đa hóa lợi nhuận. Một số nhà nghiên cứu cho rằng ngân hàng có thể bảo đảm thăng bằng tốt hơn giữa vốn chủ sở hữu và nợ bằng cách dùng nguồn cấp vốn mang một số tính chất của cả hai hình thức tài trợ này.

Theo lý thuyết. Các ông chủ nhà băng (đặc biệt là Jamie Dimon của JPMorgan Chase) xem tỷ lệ đó là quá cao. Ngân hàng có thể bán các tài sản này để bù đắp thanh khoản. Trong khi đó. Rất khó để phân biệt giữa các giao tế được thực hành nhằm phục vụ khách hàng và các giao du được thực hiện chỉ vì lợi ích của ngân hàng.

Giảm dùng đòn bẩy (tỷ lệ tối đa bây chừ là 33) và giảm sự phụ thuộc vào nguồn vốn ngắn hạn. Chả hạn như giao tế cổ phiếu và chứng khoán phái sinh. Trái khoán Chính phủ có lợi suất chỉ 2-3%. Đó là lý do mà một số người cho rằng các nhà băng nên duy trì một lượng vốn chủ sở hữu lớn hơn nhiều so với đề nghị của các quy định mới.

Việc lựa chọn nắm giữ các tài sản an toàn đã làm giảm tỷ suất sinh lời. Các hoạt động được xem là rủi ro hơn. Đáp ứng được yêu cầu của các chủ nợ. Trên thực tại. Chúng ta lại không chắc về cách để có nguồn vốn tiềm ẩn giá rẻ.

Các ngân hàng thường xây dựng sự linh hoạt tài chính bằng hai cách.

Ngân hàng cần phải duy trì nguồn vốn chủ sở hữu an toàn (Nguồn vốn này cho thấy lượng tiền mà những người chủ nhà băng đã đầu tư vào ngân hàng).

Có thể làm giảm lượng vốn cho vay của các nhà băng vì các khoản vốn đệm ngày nay chỉ đủ để bảo đảm an toàn cho khoản tín dụng nhỏ hơn. Vốn chủ sở hữu cũng chỉ là một trong những nguồn vốn.

Hay thậm chí cao hơn so với yêu cẩu của quy định Basel III. Hãy bắt đầu với vấn đề tài chính điển hình của một hộ gia đình hay một doanh nghiệp.

Là cầu nối giữa người gửi tiền và người đi vay. Trong một bài báo năm 2010. Các khoản tài sản và nợ phải trả chưa được công bố và tách bạch có thể gây nhiều khó khăn khôn lường. Khi vốn chủ sở hữu chiếm khoảng 16-20% tài sản điều chỉnh rủi ro. Lựa chọn độc nhất sẽ là tăng ROA bằng cách ứng dụng mức lãi suất cao hơn đối với người vay tiền. Để ngăn chặn nguy cơ này. Nên những nhà đầu tư lớn như công ty bảo hiểm và quỹ hưu trí sẽ giám sát sổ sách của ngân hàng một cách kỹ lưỡng.

Trong quá khứ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét