Thứ Tư, 21 tháng 8, 2013

Không gian của tiếp ngày hôm nay nhận.

Trước nhất, ở thời kỳ Diễm Châu dịch chuyển, đó thuần tuý chỉ là “truyện” trong sự biện biệt với thơ và kịch. Rất ít khi đó là tiếng cười khôi hài, mà cốt là tiếng cười mai mỉa, châm biếm. Năm 1990, một bản dịch  Con voi  từ nguyên bản tiếng Ba Lan của dịch giả Nguyễn Hữu Dũng cũng được ban bố tại Nhà xuất bản Tác phẩm mới.

Ngoài tính năng sản của tác phẩm Mrożek, sự đổi thay trong kinh nghiệm thẩm mỹ của người Việt Nam cũng làm cho một số vấn đề trong tác phẩm của ông được trội lên ở mặt này hay mặt khác, khi là tính chất cách mệnh từng lớp, khi là hiệu quả nghệ thuật tự sự, khi là phương thức tiếp cận nghệ thuật về con người và tầng lớp.

Để ngay cả khi, nhiều ít những kinh nghiệm nghệ thuật của Mrożek có thể bị bỏ lỡ hay đã bị vượt qua, thì với nhiều khúc quành trong đời sống dịch thuật văn học Việt Nam, ông vẫn hiện diện như một chỉ dấu lịch sử để văn chương Việt Nam soi rọi vào chính nó.

Gần đây nhất, tháng 5/2013, tập truyện  Con voi [Tuyển tập 85 truyện ngắn Mrożek]   của dịch giả Lê Bá Thự được Phương Nam và Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành, trên cơ sở phát triển từ tập  50 truyện ngắn Sławomir Mrożek  (Nhà xuất bản văn học, 2002). 2. ” Đó là lời kết của truyện  Nghề tự tận. Mrożek viết khoảng 40 vở kịch, đặc biệt với  Tango  (1964), ông đã tạo lập được tên tuổi của mình trong dòng mạch những sáng tạo văn học phi lý vào nửa sau thế kỷ XX.

Truyện của Mrożek quyến rũ người đọc trước nhất ở tính cách trào phúng. Đọc truyện, theo đó, người đọc trước hết được trải nghiệm tiếng cười. Có thể trông coi những tác phẩm này như là những  viết ngắn  , còn được định danh bằng các tên gọi khác như truyện cực ngắn (nếu mường tượng đấy là diễn ngôn truyện kể), là tiểu luận (nếu mường tượng đấy là các diễn ngôn nghị luận). Nó khiến người đọc phải nghĩ suy, chua xót và thấm thía.

Ở Việt Nam, Mrożek lại được biết đến đốn với tư cách nhà văn viết truyện ngắn trào phúng, ngay từ rất sớm, và cho đến tận hiện giờ.

Phẩm tính phi lý không được nhấn mạnh mà thay thế vào đó là phẩm tính trào phúng: tập sách của Nhà xuất bản Tác phẩm mới có thêm phụ đề “Tập truyện châm biếm”.

Sự chia sẻ giữa hai dịch giả, Có lẽ đều ở khía cạnh giá trị tư tưởng và nhân kiệt nghệ thuật độc đáo của Mrożek. Mrożek là người bắt bệnh cho xã hội Ba Lan hiện đại, ông tin vào sự phản biện, vào sự độc lập trong nghĩ suy. Sau Diễm Châu hai mươi năm, bản dịch của Nguyễn Hữu Dũng dường như lại xuất hiện trong một quang cảnh văn hóa khác. Tập  50 truyện ngắn Sławomir Mrożek  của Nhà xuất bản văn học cũng có kèm theo phụ đề: “Truyện ngắn, truyện cực ngắn chọn lọc”, trước khi trở về với phụ đề thân thuộc “Tập truyện ngắn” trong lần xuất bản bổ sung của Phương Nam và Nhà xuất bản Hội Nhà văn.

Có thể nói, Mrożek đã du hành đến Việt Nam gần nửa thế kỷ. Năm 1969, ở Sài Gòn, dịch giả Diễm Châu đã công bố bản dịch  Con voi (Słoń  , 1957) tại Nhà xuất bản Trình Bầy, trước cả bản dịch sang tiếng Anh ba năm:  The Elephant  (Greenwood Press, 1972).

Tính cách trào phúng, do đó, giảng giải cho việc dễ dàng đính thêm phụ đề “Truyện châm biếm” vào bản dịch  Con voi  , khi nó được hiểu như là một dòng mạch phát triển khá mạnh mẽ trong văn học Việt Nam truyền thống.

Vậy là, cùng một đối tượng, hiện diện ở Việt Nam trong hơn 40 năm, trong những không gian đọc khác nhau, trông về Mrożek đã có những chuyển đổi, theo cùng nhu cầu nhận thức và thưởng thức văn học. Ông muốn người ta cất tiếng nói từ sự độc lập tự chủ ấy, dù đơn thuần có khi chỉ là một phát hiện giản dị mà không đơn giản: “Tin tức thời bảo đó là ‘vụ trẫm mình’, còn tôi thì tôi bảo, đó chẳng qua là một vụ tai nạn.

Tiếng cười trong truyện Mrożek, nên chi, dù khôi hài hay mỉa mai hay châm biếm, đều kéo theo ở phía bên kia của nó tiếng khóc. Nhưng khi tiếng cười vừa ngưng lại, thì nỗi buồn tốp rồi trào dâng. Nó có trào phúng nhưng không  hẳn/chỉ  là trào phúng, thậm chí độc lập với chức năng phúng gián. Nó được bật lên bởi sự lố bịch của nhân vật, sự hài hước của các chi tiết sáng dạ, sự bất thần của các sắp đặt khéo léo#.

Bên cạnh tiếng cười trào phúng, có một bộ phận đáng kể những truyện của Mrożek được viết theo một bút pháp khác. 1. Thêm nữa, bởi với một dịch giả anh tài không chỉ nằm lòng văn chương phi lý, thì một Mrożek của  Tango  đến từ Ba Lan xã hội chủ nghĩa bóng gió (hay từ một nhà văn Ba Lan đang lưu vong tại Pháp), có thể là một dấu chỉ quan yếu cho việc truyền dẫn tới bạn đọc Việt Nam.

4. Nhưng giữa bối cảnh văn hóa xuất hiện dịch phẩm Mrożek của Nguyễn Hữu Dũng và Lê Bá Thự, dẫu chỉ cách nhau mươi năm, cũng có những đổi thay đáng để ý.

5. Có thể đọc được hàng loạt các truyện ngắn của Mrożek từ ý kiến này. Thậm chí, hình thức “phản ngữ” để cất tiếng trào phúng cũng phần nào lép vế hơn so với các hình thức dùng tiếng nói giễu nhại phối hợp với hình tượng nghệ thuật kệch cỡm, lố lỉnh để tạo hiệu ứng công kích sâu cay.

Và ở mỗi thời đoạn, ông đều mang đến cho người đọc Việt Nam ít nhiều những nhận thức và trải nghiệm mới mẻ. Đến thời Lê Bá Thự, định ngữ này lại được thay thế để thành “truyện rất ngắn”, một thể loại mới được biết đến ở Việt Nam, như một cộng hưởng để theo đó, hy vọng viết ngắn có thể trở thành loại thể ưu trội trong văn chương Việt Nam thế kỷ mới.

Với riêng Nguyễn Hữu Dũng, đấy còn là ý hướng giới thiệu về nền văn học Ba Lan, mà trước Mrożek, là những Henryk Sienkiewicz, Tadeusz Dolega Mostowicz, Helena Mniszek,… Ở khía cạnh thứ hai này, Nguyễn Hữu Dũng san sớt với dịch giả đến sau là Lê Bá Thự, khi cả hai ông đều là những dịch giả dịch văn học Ba Lan từ nguyên ngữ. Gọi là viết ngắn để cốt để nhấn mạnh đến tính chất giới hạn của tự sự, với sự gọn nhẹ của số lượng ngôn từ và khả năng bao quát ý tưởng, trong việc bao gộp tính chất kể việc và nghị sự, mà sự phân tách nhiều khi là bất khả.

3. Ở đấy, nhận thức sâu sắc cõi đời phi lý, sự giả trá của lòng người, sự lừa lật của quyền lực, Mrożek cất tiếng cười châm biếm, lật tẩy diện mạo khả ố của kẻ thống trị, song song cất tiếng cười mai mỉa cả nạn nhân của nó, những người hài lòng và/hoặc chịu đựng thỏa hiệp với đời sống tha hóa ấy.

Một lời kết xuất sắc, cho nhiều hơn một kết thúc truyện. Qua thời Nguyễn Hữu Dũng, loại thể được nhấn mạnh ở khía cạnh nội dung, khi được thêm định ngữ để trở nên “truyện châm biếm”.

Điều gì đã khiến Mrożek du hành tới Việt Nam chỉ mươi mười lăm năm sau khi ông khẳng định được tên tuổi của mình ở Ba Lan và châu Âu? Và vì sao lại là truyện ngắn chứ không phải kịch? có nhẽ sự hợp nhất trong phong cách trào lộng ở quờ các thể loại mà Mrożek sáng tạo, với thuộc tính humour đặc trưng, khả năng sử dụng ngôn ngữ tinh tế và kỹ thuật giễu nhại điêu luyện, sờ soạng hợp thành một phúng dụ về sự phi lý của cõi đời, kiếp người, mà từng lớp Ba Lan chỉ là một trường hợp, đã đưa tác phẩm của ông vào tầm quan sát của dịch giả Diễm Châu.

Mrożek cũng thành công với truyện ngắn và tiểu luận, nơi bộc lộ nhiều quan điểm sâu sắc của ông về nghệ thuật và cuộc đời.

Với Mrożek, đặc trưng viết ngắn đọng lại ở cái nhìn mang tính phúng dụ về đời sống, về nghệ thuật, làm thành những tác phẩm nhẹ-nhõm-sâu-cay khi cất tiếng cười giữa cuộc đời. Trong cái nghề tự tận, đôi khi cũng xảy ra tai nạn chết người.

Sławomir Mrożek (1930) được biết đến với nhân cách họa sĩ biếm họa trước khi trở nên kịch tác gia, nhà văn trào phúng Ba Lan nức tiếng thế giới.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét